Hướng dẫn mới về trình tự xử lý kỷ
luật lao động
Ngày 24/10/2018, Chính phủ ban hành Nghị định 148/2018/NĐ-CP sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 05/2015/NĐ-CP (ngày 12/01/2015 của Chính phủ) quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số nội dung của Bộ Luật lao động, có hiệu lực thi hành kể từ ngày
15/12/2018. Theo đó, Điều 30 của Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định về trình tự
xử lý kỷ luật lao động tại Điều 123 của Bộ Luật lao động
được sửa đổi như sau:
Khi phát hiện người lao động có hành vi vi phạm
kỷ luật lao động tại thời điểm xảy ra hành vi vi phạm, người sử dụng lao động
tiến hành lập biên bản vi phạm, thông báo đến tổ chức đại diện tập thể lao động
tại cơ sở; cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật trong
trường hợp người lao động là người dưới 18 tuổi để tiến hành họp xử lý kỷ luật
lao động.
Trường hợp người sử dụng lao động phát hiện hành vi
vi phạm kỷ luật lao động sau thời điểm hành vi phạm đã xảy ra, có đủ căn
cứ chứng minh được lỗi của người lao động và trong thời hiệu xử lý kỷ luật thì
thông báo nội dung, thời gian, địa điểm cuộc họp xử lý kỷ luật lao động đến của
tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở, người lao động, cha, mẹ hoặc người
đại diện theo pháp luật của người lao động dưới 18 tuổi; đảm bảo các thành phần
này nhận được thông báo trước khi diễn ra cuộc họp và tiến hành cuộc họp xử lý
kỷ luật lao động khi có sự tham gia của các thành phần đã thông báo. Khi nhận
được thông báo của người sử dụng lao động, trong thời hạn tối đa 03 ngày làm
việc kể từ ngày nhận được thông báo, tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ
sở, người lao động, cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật của người lao
động dưới 18 tuổi phải xác nhận tham dự cuộc họp. Trường hợp không tham dự phải
thông báo cho người sử dụng lao động và nêu rõ lý do. Trường hợp một trong các
thành phần dự họp quy định nêu trên không xác nhận tham dự cuộc họp, hoặc
nêu lý do không chính đáng, hoặc đã xác nhận tham dự nhưng không đến họp thì
người sử dụng lao động vẫn tiến hành xử lý kỷ luật lao động.
Cuộc họp xử lý kỷ luật lao động phải được lập thành
biên bản và được thông qua các thành viên tham dự trước khi kết thúc cuộc họp.
Biên bản phải có đầy đủ chữ ký của các thành viên tham dự cuộc họp. Trường hợp
một trong các thành viên đã tham dự cuộc họp mà không ký vào biên bản thì phải
ghi rõ lý do.
Người giao kết hợp đồng lao động bên phía người sử
dụng lao động là người có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật lao động đối
với người lao động.
Quyết định xử lý kỷ luật lao động
phải được ban hành trong thời hạn của thời hiệu xử lý kỷ luật lao
động (tối đa là 06 tháng, kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm; trường hợp hành vi
vi phạm liên quan trực tiếp đến tài chính, tài sản, tiết lộ bí mật công nghệ,
bí mật kinh doanh của người sử dụng lao động thì thời hiệu xử lý kỷ luật lao
động tối đa là 12 tháng) hoặc thời hạn kéo dài thời hiệu xử lý kỷ luật lao động
(tối đa không quá 60 ngày đối với các trường hợp nghỉ ốm đau, điều dưỡng; nghỉ
việc được sự đồng ý của người sử dụng lao động; Đang bị tạm giữ, tạm giam; Đang
chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra xác minh và kết luận đối với Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích,
sử dụng ma tuý trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật
công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi
gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về
tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động; Lao động nữ có thai, nghỉ thai
sản; người lao động nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi). Quyết định xử lý kỷ luật
lao động phải được gửi đến người lao động, cha, mẹ hoặc người đại diện theo
pháp luật của người dưới 18 tuổi và tổ chức đại diện tập thể lao động
tại cơ sở.”
Ngoài ra, Nghị định 148/2018 cũng sửa đổi khoản 1 Điều 31 Nghị đinh 05/2015, đó là Người sử dụng lao động
áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải trong trường hợp người lao động tự ý bỏ
việc 05 ngày làm việc cộng dồn trong khoảng thời gian tối đa 01 tháng (30 ngày),
kể từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc hoặc 20 ngày làm việc cộng dồn trong
khoảng thời gian tối đa 01 năm (365 ngày), kể từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà
không có lý do chính đáng.
Như vậy, so với quy định cũ, thì quy định mới có
những điểm khác biệt:
Thứ nhất: Để xử lý kỷ luật người lao động, thì khi phát
hiện người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật lao động tại thời điểm xảy
ra hành vi vi phạm, người sử dụng lao động phải tiến hành lập biên bản vi phạm.
Trường hợp người sử dụng lao động phát hiện hành vi vi phạm kỷ luật lao động
sau thời điểm hành vi phạm đã xảy ra thì phải có đủ căn cứ chứng minh được
lỗi của người lao động và phải trong thời hiệu xử lý kỷ luật.
Thứ hai: Người sử dụng lao động chỉ phải đảm bảo
thông báo mời họp được gửi đến tay các thành phần tham dự trước khi diễn ra
cuộc họp xử lý kỷ luật (không yêu cầu phải gửi trước ít nhất 05 ngày làm việc
như quy định hiện nay) và nếu bất kỳ thành phần tham dự nào vắng mặt mà không
có lý do chính đáng, thì người sử dụng lao động có quyền tiến hành cuộc họp xử
lý kỷ luật, thay vì phải chờ đến khi đã tiến hành thông báo ít nhất 03 lần như
quy định hiện nay.
Thứ ba: Khi nhận được thông báo của người sử dụng lao động,
trong thời hạn tối đa 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo, tổ chức
đại diện tập thể lao động tại cơ sở, người lao động, cha, mẹ hoặc người đại
diện theo pháp luật của người lao động dưới 18 tuổi phải xác nhận tham dự cuộc
họp. Trường hợp không tham dự phải thông báo cho người sử dụng lao động và nêu
rõ lý do. Trường hợp một trong các thành phần dự họp quy định nêu
trên không xác nhận tham dự cuộc họp, hoặc nêu lý do không chính đáng,
hoặc đã xác nhận tham dự nhưng không đến họp thì người sử dụng lao động vẫn
tiến hành xử lý kỷ luật lao động. Nghị định cũ không quy định điều này.
Thứ tư: Về thẩm quyền ký quyết định kỷ luật,
theo quy định thì mới Người giao kết hợp đồng lao động bên phía người sử dụng
lao động là người có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật lao động đối với
người lao động (quy định cũ thì Người được ủy quyền giao kết hợp đồng lao động
chỉ có thẩm quyền xử lý kỷ luật lao động theo hình thức khiển trách).
Thứ năm: Đối với hành vi tự ý bỏ việc của người lao
động, quy định trước đây dùng cụm từ “phạm vi”, thì quy định mới được thay bằng
cụm từ “tối đa”.
Thế
Hoan